Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế

|
Lượt xem:
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định luật ra đời từ rất sớm và đã trở thành một trong những chế định quan trọng trong ngành Luật Dân sự của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa các nước là không hoàn toàn giống nhau, vì vậy, tình trạng xung đột pháp luật về vấn đề này như là một tất yếu khách quan. Để giải quyết được những xung đột pháp luật đó, đòi hỏi ngành Luật Tư pháp quốc tế của mỗi quốc gia cần phải có hướng đi cụ thể và kịp thời, nắm bắt kịp được với xu thế hội nhập toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế
1.1. Khái niệm
Như thế nào là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Bồi thường thiệt hại trong Tư pháp quốc tế (hay còn gọi là bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài). Yếu tố nước ngoài đã được BLDS năm 2015, Điều 633 khoản 2 quy định rất cụ thể: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự khi: (1) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; (2) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; (3) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”.
Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây: (1) Các bên chủ tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bên gây hại và bên bị hại có quốc tịch khác nhau hoặc nơi cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau (đối với pháp nhân). Ví dụ: Công dân Việt Nam lái ô tô gây thiệt hại cho công dân Hungari về sức khoẻ và tài sản; (2) Hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Ví dụ: hai công dân Việt Nam đi lao động hợp tác tại Malaixia gây thiệt hai cho nhau về tài sản.
1.2. Đặc điểm
Bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài cũng là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, do vậy nó cũng có đầy đủ đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tư pháp quốc tế Việt Nam đưa ra ba dấu hiệu cơ bản để xác định một quan hệ dân sự là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, dấu hiệu quốc tịch của chủ thể
Đặc điểm nổi bật đầu tiên của các quan hệ xã hội được Tư pháp quốc tế điều chỉnh là yếu tố nước ngoài của các quan hệ này. Yếu tố nước ngoài đầu tiên phải kể đến đó là điểm khác biệt về chủ thể (chủ thể không cùng quốc tịch, không cùng nơi cư trú và cũng không có cùng trụ sở trong một quốc gia). Chủ thể đó có thể là cá nhân, pháp nhân, nhà nước. Theo Điều 4 Luật Thái Lan (Luật B.E.2508) quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Thái Lan”. Như vậy, theo cách quy định này thì đối tượng được coi là người nước ngoài theo pháp luật Thái Lan sẽ bao gồm những người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch. Cách hiểu này cũng tương tự nhu các quy định của pháp luật Việt Nam. Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch”.  Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại khác quốc tịch thì quan hệ bồi thường này sẽ chịu điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, cách thức xác định quốc tịch, nơi cư trú của cá nhân hay xác định trụ sở của pháp nhân theo pháp luật của các nước cũng có nhiều điểm khác nhau. BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “Nếu một thể nhân có nhiều nới cư trú khác nhau hoặc nhiều chỗ làm việc thường xuyên khác nhau thì một trong số nơi cư trú hoặc chỗ làm việc này phải được coi như là nơi cư trú pháp lý của người đó”, “nếu không rõ nơi cư trú pháp lý thì nơi cư trú hiện tại sẽ được coi như nơi cư trú pháp lý của người đó” (Điều 44, 45, 46). BLDS Việt Nam năm 2005 và năm 2015 đều quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống” (Điều 25 BLDS năm 2005 và Điều 40 BLDS năm 2015). Điều 12 Luật Cư trú năm 2011 quy định: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú”. Như vậy, pháp luật Việt Nam và Thái Lan cũng có điểm tương đồng khi xác định nơi cư trú của cá nhân khi cùng dựa trên cơ sở là nơi có địa chỉ cư trú hay còn gọi là nơi đăng ký thường trú (Việt Nam còn gọi là nơi có hộ khẩu). Trường hợp không xác định được nơi thường trú thì xác định theo nơi tạm trú. Đối với pháp nhân thì sự khác biệt thể hiện ở quốc tịch hay nơi có trụ sở của pháp nhân. Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về căn cứ xác định quốc tịch của pháp nhân. Phần lớn các quốc gia Châu Âu xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đặt trung tâm quản lý của pháp nhân như Pháp, Italia, Thụy Sĩ…Các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ (hay còn gọi là hệ thống luật Ăng lô – Xắc xông; Common Law) và một số nước Châu Mỹ la tinh xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng ký điều lệ, còn các nước ở khu vực Ả Rập như Ai Cập, Xyri…lại xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi kinh doanh, sản xuất chính. Điều 676 BLDS năm 2015 quy định quốc tịch của pháp nhân như sau: “Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập”. Với quy định này, pháp luật Việt Nam dựa vào dấu hiệu nơi thành lập pháp nhân để xác định quốc tịch của pháp nhân. Pháp nhân thành lập ở đâu thì pháp luật nước đó sẽ là căn cứ phát sinh để xác định quốc tịch của pháp nhân, ví dụ: Viettel là một doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông, thành lập ở Việt Nam nên Viettel mang quốc tịch nước nào sẽ do pháp luật Việt Nam quy định. Pháp luật Việt Nam cụ thể là Điều 80 BLDS năm 2015 quy định: “Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam”. Như vậy, Viettel thành lập ở Việt Nam sẽ là pháp nhân Việt Nam, hay Viettel có quốc tịch Việt Nam. Khi Viettel mở rộng phạm vi hoạt động của mình không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn ở nước ngoài, chẳng hạn Viettel thành lập một doanh nghiệp Y 100% vốn của mình tại Lào, khi xem xét vấn đề quốc tịch của doanh nghiệp Y, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ căn cứ vào Điều 676 BLDS năm 2015 để xác định quốc tịch của doanh nghiệp Y.
Bên cạnh sự khác biệt về quốc tịch, trường hợp các bên đều là pháp nhân thì pháp nhân phải có trụ sở ở các nước khác nhau. Điều 36 Bộ các nguyên tắc pháp luật dân sự Trung Hoa quy định: “Một pháp nhân là một tổ chức có các quyền dân sự, năng lực dân sự  và độc lập hưởng các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật”, “Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt văn phòng chính” (Điều 39). Như vậy, pháp luật Trung Quốc xác định trụ sở pháp nhân căn cứ vào nơi đặt cơ quan quản lý, điều hành của pháp nhân; Điều 71 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “Nơi cư trú pháp lý của một pháp nhân là nơi mà pháp nhân có trụ sở chính của mình hoặc là nơi được lựa chọn làm nơi cư trú pháp lý đặc biệt trong điều lệ hoặc trong văn bản thành lập pháp nhân đó. Nơi mà pháp nhân có trụ sở chi nhánh cũng có thể được coi là nơi cư trú pháp lý của nó đối với những hành vi thực hiện tại đó”. Khoản 1 Điều 79 BLDS năm 2015 của Việt Nam quy định: “Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân”. Do đó, cả pháp luật Việt Nam, Trung Quốc hay Thái Lan cũng đều quy định trụ sở của pháp nhân theo nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân. Như vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế, nếu các bên chủ thể là cá nhân thì phải có quốc tịch khác nhau hoặc cư trú ở các quốc gia khác nhau; đối với pháp nhân thì phải có trụ sở hay quốc tịch khác nhau. Trường hợp các bên chủ thể có cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú hay trụ sở, hành vi trái pháp luật lại được thực hiện trong nước thì không chịu sự điều chỉnh của Tư pháp quốc tế mà sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vì vậy, trên cơ sở của pháp luật của pháp luật quốc tế cũng như trong nước, dấu hiệu về chủ thể trong quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo  quy định của pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể như sau: nếu như BLDS năm 2005 quy định “có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài” thì BLDS năm 2015 lại quy định “có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài”. Như vậy, đã có sự thay đổi quan trọng về chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”.
Sự thay đổi đó là:
Một là, BLDS năm 2015 đã loại bỏ chủ thể “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Việc loại bỏ chủ thể này là hợp lý, bở lẽ người Việt Nam cư trú ở nước ngoài không phải là một chủ thể mang yếu tố nước ngoài điển hình. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam thì người Việt Nam cư trú ở nước ngoài vừa có thể là công dân Việt Nam, vừa có thể là công dân nước ngoài gốc Việt Nam nhưng đã sinh sống, cư trú lâu dài tại nước ngoài. Trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài là cá nhân nước ngoài thì đây chính là đặc điểm của chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (yếu tố quốc tịch) được quy định ở cả hai BLDS. Còn trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam, khi đó quan hệ dân sự được thiết lập giữa hai bên, một bên là người Việt Nam cư trú tại Việt Nam với một bên là công dân Việt Nam cư trú tại nước ngoài, đây là dấu hiệu để xác định một quan hệ có hay không là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Hai là, BLDS năm 2015 đã thay cụm từ “cơ quan, tổ chức” nước ngoài thành “pháp nhân” nước ngoài. Theo quy định của luật mới, chủ thể tham gia quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng chỉ là cá nhân và pháp nhân. Đây là một sự thay đổi đã gây khá nhiều tranh cái của các chuyên gia pháp luật trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015. Có ý kiến cho rằng, quy định như vậy là chưa đủ, bởi lẽ có những chủ thể không phải là cá nhân, pháp nhân nhưng vẫn tham gia quan hệ dân sự quốc tế như: Nhà nước, tổ chức quốc tế, hộ gia đình, tổ hợp tác…Tuy nhiên, nếu đánh giá theo hướng khác, có thể thấy việc quy định như vậy là hợp lý. Bởi trong Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nhà nước được xác định một cách chung là “tổ chức quyền lực công cộng của toàn xã hội , vì thế Nhà nước có vị thế tựa hồ như đứng trên xã hội, đứng trên giai cấp”
Do đó, về nguyên tắc, Nhà nước có quyền miễn trừ Tư pháp, bất khả xâm phạm, điều này khiến cho Nhà nước không thỏa mãn điều kiện trở thành pháp nhân (điều kiện tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình). Tuy nhiên, BLDS năm 2015 cũng đã quy định trách nhiệm nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, cơ quan Nhà nước ở Trung ương, địa phương trong quan hệ dân sự giữa một bên là Nhà nước, cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Theo đó, Nhà nước Việt Nam trong các quan hệ dân sự với Nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài sẽ không còn quyền miễn trừ Tư pháp trong một số trường hợp. Khi không còn quyền miễn trừ Tư pháp, Nhà nước tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách pháp nhân và hoàn toàn bình đẳng với các cá nhân, pháp nhân khác. Tương tự đối với các tổ chức quốc tế, tổ chức thỏa mãn điều kiện được công nhận là pháp nhân theo Điều 74 BLDS năm 2015, có thể là pháp nhân thương mại (Điều 75 BLDS năm 2015) hoặc pháp nhân phi thương mại (Điều 76 BLDS), đều có thể tham gia các quan hệ dân sự. Trên thực tế, hầu hết các tổ chức kinh tế đều thỏa mãn các điều kiện trở thành pháp nhân theo quy định trên. Riêng đối với hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân khác khi tham gia quan hệ dân sự, sẽ tham gia với tư cách cá nhân, cá nhân đó phải là các thành viên được bầu cử trong tổ chức đó hoặc được ủy quyền cho người khác.
Khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015 quy định điều kiện để một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: “a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Điều 100 BLDS năm 2015 quy định: “1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết. Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện; 2. Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai”
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý, quy định này không có nghĩa là hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân không được tham gia quan hệ dân sự. Cụm từ còn mơ hồ “cơ quan, tổ chức, pháp nhân nước ngoài” đã được loại bỏ và BLDS năm 2015 đã sử dụng một khái niệm cụ thể, rõ ràng hơn đó là “cá nhân, pháp nhân nước ngoài”. Theo quy định hiện hành, cá nhân nước ngoài hay còn gọi là người nước ngoài bao gồm cá nhân có quốc tịch nước ngoài và cá nhân không có quốc tịch, còn pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Khái niệm “pháp nhân nước ngoài” tuy không được quy định ở BLDS năm 2005, nhưng tại BLDS năm 2015 nhưng lại khẳng định là pháp nhân Việt Nam (hay nói cách khác là pháp nhân có quốc tịch Việt Nam) là pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam.  
Ở đây ta có thể hiểu, pháp nhân nước ngoài là pháp nhân không được thành lập theo pháp luật Việt Nam (tức là theo pháp luật nước ngoài). Khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2015 cũng quy định: “Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập”. Hiện nay trên thế giới, các tiêu chí phổ biến được các quốc gia sử dụng làm căn cứ để xác định quốc tịch của pháp nhân đó là: Theo trụ sở của pháp nhân (như pháp luật của Đức, Pháp…);  theo nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập (như pháp luật của Anh, Mĩ…). Theo quy định của pháp luật Việt Nam, những tổ chức đủ điều kiện của pháp nhân quy định tại Điều 74 BLDS năm 2015, thành lập theo pháp luật Việt Nam, tất cả những pháp nhân không phải pháp nhân Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài, quốc tịch của pháp nhân nước ngoài được xác định dựa vào nước nơi thành lập pháp nhân.
Khoản 1 Điều 101 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết”.
Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP hướng dẫn BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch; Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài”.
Điều 80 BLDS năm 2015 quy định về quốc tịch của pháp nhân “Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam”.
Với đặc điểm trên thì BLDS năm 2015 quy định tiến bộ hơn cả, tức là chỉ cần có một bên tham gia quan hệ cá nhân, pháp nhân nước ngoài thì được coi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, cá nhân nước ngoài là cá nhân không có quốc tịch Việt Nam, pháp nhân nước ngoài là pháp nhân không được thành lập theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, dấu hiệu nơi xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ.  
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một quan hệ dân sự cũng được coi là có yếu tố nước ngoài nếu việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra tại nước ngoài. Trước đây, BLDS năm 1995 không coi quan hệ này là quan hệ có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, BLDS năm 2005 đã quy định rộng hơn những vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng và phải đến BLDS năm 2015 thì quy định này mới rõ ràng, cụ thể và hoàn thiện hơn khi thêm (bổ sung) một hoạt động quan trọng trong quan hệ dân sự đó là việc “thực hiện” quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài (hoạt động này đã không được các bộ luật trước đó đề cập đến”. BLDS năm 2005 quy định một trong các đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là “căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài”. Việc quy định từ “căn cứ” và “theo pháp luật nước ngoài” khiến cho điều khoản này trở nên khó hiểu đó là rất khó để có thể xác định được đâu là căn cứ cho việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ theo pháp luật nước ngoài. Bên cạnh đó, việc phải xác định yếu tố nước ngoài “theo pháp luật nước ngoài” vô hình chung đã làm đảo lộn trật tự giải quyết tranh chấp dân sự của Tư pháp quốc tế. Để giải quyết vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, một Tòa án bất kỳ của Việt Nam cần phải xác định vấn đề đầu tiên là vụ việc này có phải vụ việc quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài hay không và sau đó phải xác định xem mình có thẩm quyền xét xử hay không. Chỉ sau khi giải quyết được cả hai câu hỏi trên, Tòa án mới xem xét tới vấn đề pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài được áp dụng để xác định các vấn đề liên quan đến vụ việc (trong đó có các vấn đề về căn cứ xác lập, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ). Rõ ràng, việc lược bỏ từ “căn cứ” và “theo quan hệ pháp luật nước ngoài” như quy định trong BLDS năm 2015 là rất hợp lý và thực tế hơn nhiều so với luật hiện hành do Tòa án chỉ cần xem xét việc xác lập, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra tại nước ngoài hay Việt Nam.
Thứ ba, dấu hiệu đối tượng của quan hệ
Về đặc điểm đối tượng, BLDS năm 2005 quy định “tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”, trong khi đó BLDS năm 2015 lại quy định “các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”. Trong khi BLDS năm 2015 quy định rõ khách thể của quan hệ là “tài sản” liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài; BLDS năm 2015 lại sử dụng cụm từ mang ý nghĩa rộng hơn đó là “đối tượng” của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Sự thay đổi này là rất dễ hiểu, bởi lẽ, lý luận và thực tiễn đều cho thấy đối tượng của quan hệ dân sự không chỉ là tài sản cụ thể mà còn có thể là những lợi ích khác, chẳng hạn như việc thực hiện hành vi nhất định (vận chuyển người, đưa đi du lịch…). Do vậy, quy định trường hợp có yếu tố nước ngoài chỉ dựa vào đối tượng của quan hệ là tài sản thì chưa đầy đủ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đây cũng chính là đặc điểm cuối cùng để xác định xem một quan hệ dân sự có phải là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài hay không.
Ba đặc điểm trên cũng chỉ là những trường hợp phổ biến, căn bản. Lý luận và thực tiễn Tư pháp quốc tế đã không giới hạn yếu tố nước ngoài trong ba trường hợp này. Yếu tố nước ngoài còn có thể được thể hiện trong những trường hợp khác như: Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, nơi thường trú của một bên hoặc các bên ở nước ngoài (BLDS năm 2005 đã quy định về trường hợp này), hợp đồng được thực hiện ở nước ngoài. Điều 1 Công ước Viên của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau…”.
2. Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
2.1. Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật các nước
Trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật của các nước đều áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi). Tuy nhiên, trong thực tế của đời sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước khác. Vậy, pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật ở đây sẽ là pháp luật của nước nào. Hiện nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất đâu được coi là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Cụ thể, pháp luật một số nước quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy lạp). Theo quan điểm này, thì khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). Như vậy, ở những nước theo quan điểm này, người ta sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện của hậu quả thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết hợp cả hai quan điểm nêu trên, pháp luật của một số nước (Đông âu) quy định áp dụng cả hai loại pháp luật. Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước nào có lợi hơn khi áp dụng.
2.2. Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam
Thông qua các quy định của pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều thấy rằng, nguyên tắc được áp dụng chủ yếu để giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “Các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng”. Điều 687 BLDS năm 2015 quy định: “1. Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng; 2. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng”
+ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ bồi thường thiệt hại diễn ra giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong các bên có một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ này tồn tại ở nước ngoài, hoặc sự kiện gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Để giải quyết quan hệ này, BLDS năm 2015 có  một thay đổi lớn so với quy định tương tự tại Điều 733 BLDS năm 2005, đó là ngay tại khoản 1 Điều 687 BLDS năm 2015 đã cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ bồi thường thiệt hại của họ. BLDS năm 2005, các bên không được phép thỏa thuận chọn Luật. Với thay đổi này trong BLDS năm 2015, các nhà làm luật một lần nữa muốn khẳng định quan điểm “việc của người dân thì để cho người dân tự giải quyết”, trao sự chủ động cho các đương sự, tôn trọng sự tự định đoạt của các đương sự ngay cả trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng. Ngoài việc là quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng ngang quyền nên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng trở nên có lý và thuyết phục là vì nếu các bên đã chọn luật thì họ cũng dễ chấp nhận những quy định của hệ thống pháp luật do họ lựa chọn hơn và việc thực thi pháp luật vì thế sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật quy định cho phép các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng nhưng các bên đã không thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận được, trong trường hợp đó, quy phạm ở Điều 687 đã dự liệu sẵn một hệ thuộc luật để điều chỉnh quan hệ này đó là hệ thuộc luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại. Ở quy định này, BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi so với BLDS năm 2005, đó là nếu như BLDS năm 2005 cho phép cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp được cân nhắc áp dụng giữa hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và hệ thống pháp luật nơi xảy ra hậu quả của hành vi gây thiệt hại, thì đến BLDS năm 2015 không còn sự lựa chọn như vậy nữa, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng một hệ thuộc luật đó là luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại. Sự thay đổi này được đánh giá là phù hợp và tích cực, bởi nếu để cả hai hệ thuộc luật và cho phép các cơ quan giải quyết tranh chấp được tùy tình huống mà áp dụng hệ thống pháp luật có thể được xem là có lợi hơn cho một bên. Hơn nữa, đây là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, là quan hệ mà khi phát sinh đã hàm chứa yếu tố bất đồng, mâu thuẫn. Nếu để cho cơ quan giải quyết tranh chấp tự do lựa chọn luật, ngay cả khi lựa chọn đó là hoàn toàn công tâm và minh bạch thì cũng dễ gây thắc mắc, khiếu kiện vì nghi ngờ sự vô tư trong việc chọn luật áp dụng của các cơ quan giải quyết tranh chấp.
          + Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại là các cá nhân có cùng nơi cư trú, hoặc bên gây thiệt hại là các pháp nhân có cùng nơi thành lập tại một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng. Quy định này dựa vào căn cứ nhân thân của các bên để xác định luật áp dụng chứ không dựa vào nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại như quy định tại khoản 1. Thay đổi này xuất phát từ việc áp dụng các hệ thống pháp luật đó (hệ thống pháp luật nơi cư trú của cá nhân và hệ thống pháp luật nơi thành lập pháp nhân) các bên sẽ nắm bắt dễ dàng và do dó sẽ dễ chấp nhận kết quả giải quyết của Tòa án hơn.
Quy định tại khoản 2 Điều 687 cũng khác so với quy định của khoản 3 Điều 773 BLDS năm 2005, bởi Điều 773 BLDS chỉ đề cập đến tình huống bên gây thiệt hại và bên bên bị thiệt hại là công dân, pháp nhân Việt Nam, thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam. Vậy nếu bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng là công dân, pháp nhân nước ngoài thì lại không có quy định tương ứng cùng nguyên tắc áp dụng luật. Như vậy, quy định của Điều 677 có tính bao quát và thống nhất hơn cho cả trường hợp các bên cùng là Việt Nam hoặc cùng là nước ngoài. Thêm nữa, hệ thuộc luật tại khoản 2 Điều 687 cũng được thay đổi so với khoản 3 Điều 773, cụ thể đổi từ hệ thuộc Luật Quốc tịch thành hệ thuộc luật nơi cư trú. Vì thông thường yếu tố cư trú sẽ chi phối và ảnh hưởng nhiều hơn yếu tố quốc tịch trong các quan hệ bồi thường thiệt hại, đó là lý do pháp luật các nước thường chọn luật nơi xảy ra hành vi hoặc luật xảy ra hậu quả để điều chỉnh quan hệ này mà không căn cứ vào quốc tịch. Hệ thuộc luật nơi cư trú còn tránh được tình trạng khó khăn trong áp dụng pháp luật khi các bên trong quan hệ là các chủ thể khác quốc tịch.
2.3. Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Các quy định của các Điều ước quốc tế chủ yếu được kể đến là các quy định quy phạm xung đột pháp luật được quy định trong các Hiệp định tương trợ Tư pháp về dân sự mà Việt Nam tham gia ký kết với các quốc gia khác. Khi nghiên cứu các Hiệp định tương trợ này, ta thấy ở các Hiệp định có những cách giải quyết về cơ bản tương đối giống nhau trong việc xác định pháp luật giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, trong mỗi Hiệp định tương trợ Tư pháp thường chia thành hai trường hợp:
+ Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại) cùng quốc tịch. Các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng Luật Quốc tịch của mỗi bên đương sự để giải quyết. Ví dụ: tại khoản 1 Điều 37 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một bên ký kết thì áp dụng Luật của bên ký kết đó”. Tại khoản 2 Điều 41 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Mông Cổ quy định “Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân của một bên ký kết thì áp dụng Luật của bên ký kết đó”.
+ Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại khác quốc tịch) thì các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: cũng tại khoản 1 Điều 37 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại”. Tại khoản 1 Điều 23 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào cũng quy định “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại thuộc thẩm quyền của cơ quan Tư pháp của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại đó”. Ngoài ra, hiện nay Việt Nam đã ký kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với khoảng 15 nước. Các hiệp định cơ bản đều quy định các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể: Với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hungari tại Điều 30, với Bungari tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Ucraina tại Điều 33, với Belarut tại Điều 39. Còn lại ba Hiệp định tương trợ Tư pháp là Hiệp Định với Cu Ba, Hiệp định với Trung Quốc, Hiệp định với Cộng hòa pháp …không có điều khoản quy định về vấn đề này.
Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước thường áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc tịch (Lex Nationalis ) hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài việc được quy định trong điều ước quốc tế song phương còn được ghi nhận trong điều ước quốc tế đa phương. Một số điều ước quốc tế đáng chú ý đã được xây dựng như:
+ Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất. Tuy nhiên, công ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp dụng với những điều kiện nhất định.
Ví dụ Công ước quy định: Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật sau:
Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5).
Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4).
Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất (điều 6).
+ Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công ước đề cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các phương tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng ký phương tiện giao thông.
Như vậy, qua nghiên cứu cách giải quyết vấn đề bồi thiệt thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật một số nước, pháp luật Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế song phương và đa phương, chúng ta nhận thấy, nguyên tắc áp dụng chủ yếu để giải quyết vấn đề này là Luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Lex loci delicti Commissi). Việc áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những ý nghĩa nhất định:
Một là, nguyên tắc lex loci delicti Commissi thể hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì áp dụng nguyên tắc này là phù hợp.
Hai là, việc xác định nơi xảy ra thiệt hại thuận lợi dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của Toà án. Toà án có thể dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt hại…đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của bên bị thiệt hại.
Ba là, nhìn chung thì nơi xảy ra thiệt hại là nơi có mối quan hệ gần gũi nhất đối với loại tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại là quy phạm thể hiện đúng bản chất của quan hệ. Do vậy ưu điểm nổi bật của nguyên tắc này là đơn giản, dễ áp dụng, chắc chắn và có thể dự tính trước trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nguyên tắc lex loci delicti Commissi được áp dụng trong pham vi rất rộng. Có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra thiệt hại để xác định các vấn đề sau:
+ Thế nào là sự kiện hay hành vi gây thiệt hại? Trên thực tế có hành vi ở quốc gia này được coi là hợp pháp (không vi phạm pháp luật), nhưng ở quốc gia khác lại được coi là hành vi bất hợp pháp. Nói cách khác, phải có hành vi gây thiệt hại trên thực tế mới có căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
+ Xác định lỗi của các bên: lỗi cố ý hay vô ý, lỗi do người bị thiệt hại gây ra hay do bên thứ ba, lỗi nặng hay lỗi nhẹ…
+ Xác định các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại như trách nhiệm bồi thường do người gây ra, hoặc do tài sản thuộc quyền quản lý, sở hữu gây ra, hoặc trách nhiệm do vật nuôi, phương tiện giao thông, hoặc do sản phẩm hàng hóa gây ra…
+ Nguyên tắc, cách thức bồi thường thiệt hại.
+ Các hình thức chế tài
+ Cách thức khởi kiện đối với các công ty bảo hiểm.
+ Thời hiệu khởi kiện.
Nói chung, để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây thiệt hại.
Tuy nhiên, có một điểm cần chú ý, trong trường hợp quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại là luật áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chỉ áp dụng hệ thống pháp luật thực chất (luật nội dung) của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng không chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu ngược.
Điều này là hoàn toàn hợp lý vì mục đích của việc xây dựng quy phạm xung đột điều chỉnh các quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết vụ việc đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của các bên, vì nhìn chung đây cũng là hệ thống luật có quan hệ gần nhất đối với vụ việc. Giả thiết rằng, nếu thừa nhận việc dẫn chiếu ngược thì mục đích của quy phạm không đạt được, gây khó khăn trong việc giải quyết và không đảm bảo được lợi ích của người bị thiệt hại.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải
 
Tài liệu tham khảo
1. Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra;
2. Các Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa: Việt Nam – Lào; Việt Nam – Liêng Bang Nga, Việt Nam – Cu Ba; Việt Nam – Tiệp Khắc; Việt Nam – Pháp; Việt Nam – Trung Quốc;
3. Luật Quốc tịch năm 2008.
4. Luật Cư trú năm 2011.
5. Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và 2015;
7. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
8.TS.Nguyễn Hồng Bắc – Khoa Pháp luật quốc tế “Đại học Luật HN “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài”;
9. Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự, NXB CAND, Hà Nội,  2002;
10. Nguyễn Văn Dũng “Bàn về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015”;
11. PGS. TS Nguyễn Văn Cừ - PGS. TS Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân, năm 2017.